Hoàng Dược Thảo
30 THÁNG TƯ, NGHĨ GÌ, NHỚ GÌ?
Chiều hôm qua chúng tôi có một buổi gặp gỡ tình cờ ở một nhà hàng. Vì là “tình cờ” nên rất là vui. Vào cái tuổi thất thập, hình như chúng tôi không dự định gì trước được hết vì bạn tôi có thể bận bất ngờ: phải đi đón cháu, cái chân đau nhức không lái xe được mà “ông ấy ” lại không được khỏe… Nên gặp được nhau là vui mà gặp tình cờ thì lại càng vui hơn. Câu chuyện loay hoay một lúc rồi bổng dưng có ai nhắc đến hôm nay là ngày 30 tháng 4, mau quá mới đây mà đã 50 năm…
Sau đó, mỗi người một chuyện, một hồi ức về “chính mình“ đâu đó trong ngày 30 tháng 4 của năm 1975. Mội người một hoàn cảnh, một phương cách khác nhau để được ra khỏi Việt Nam ngày đó mà cách nào thì cũng như một phép lạ nhiệm màu, tưởng lạc mất nhau rồi lại được đoàn tụ, có người tưởng được đi cùng thì lại lạc mất nhau phải nhiều năm sau mới được gặp lại thì nhà đã tan. Khi những ông bà già tóc bạc da mồi nhớ lại quá khứ “không vàng son » thì thật không có gì vui. Còn nhớ tôi chỉ ngồi im lặng vì sau 30 tháng 4, 1975 tôi còn ở lại Việt Nam thêm 14 tháng mới đi Pháp. Thời gian đủ để nhìn thấy mọi thay đổi tàn khốc xãy ra cho xã hội miền Nam, những âm mưu thâm độc của “phe thắng cuộc » để chiếm tài sản của người miền Nam và hủy diệt toàn thể chất xám của miền Nam mà họ vô cùng sợ hãi. Hậu quả là hai miền Nam-Bắc Việt Nam 50 năm sau vẫn không thể thống nhất mà vẫn là hai phe “thắng và thua » trong một trận nội chiến tương tàn.
Thời gian không thể là một liều thuốc nhiệm mầu khi vết thương vẫn còn đang rỉ máu. Đã năm mươi năm chúng tôi không còn đời sống cũ. Nghĩ gì, nhớ gì trong ngày ba mươi tháng tư? Còn chút nào trong bạn, trong tôi, những tiếc thương nuối tiếc cho những ngày tháng trước 1975 của một Việt Nam Cộng Hòa ? Hay là bây giờ tuổi già, lại biến thành nỗi tiếc thương bạn bè đã ra đi về cõi khác, đã vượt qua biển trời khiến chúng ta đau đớn, tiếc thương còn hơn nổi đau mất nước ngày nào ?
Chiều qua, tôi ăn tối rất muộn. Trong thanh vắng của đêm, không hiểu sao lại nhớ như in, lại như nghe thấy đâu đó tiếng người chạy rần rần trên đường phố của một chiều 29 tháng tư. Từ làng báo chí Thủ Đức, ba mẹ con tôi đi về gia đình người chị dâu ở đường Trần Quý Cáp, Sàigòn vì đường lên Gò Vấp, nhà của ba mẹ tôi đã không còn đi được nữa. Bốn giờ rưỡi chiều, tôi đã quyết định và khuyến khích cha mấy đứa nhỏ nên mạnh dạn tìm đường thoát thân, không cần lo cho ba mẹ con tôi vì tôi có quốc tịch Pháp. Quyết định này gia đình hai bên cho rằng đó là nguyên nhân của sự tan vỡ của cuộc hôn nhân của chúng tôi dù người trong cuộc biết rằng đó không phải là nguyên nhân, đó chỉ là chuyện không thể khác.
Tôi không biết nói sao. Chỉ biết trong trí tưởng của tôi lúc đó chỉ có một điều duy nhất: sự an nguy của người chồng là lính. Không vướng bận vợ con chắc chắn rằng sẽ dễ dàng hơn để đào thoát. Nhưng đêm 29 tháng 4, 1975 khi nằm trên lầu ba của nơi ở tạm ở đường Duy Tân, đối diện với cơ sở MACV của Hoa Kỳ , tôi nghe tiếng người chạy rần rần trên đường phố mà biết rằng đời sống tôi từ giờ phút đó sẽ không còn là đời sống cũ. Cơ sở MACV đã bị phá cửa từ sáng sớm và người dân lúc đầu còn ngần ngại bước vào nhưng đến chiều thì người người ra vô rần rần, hò hét chỉ cho nhau nơi chốn để lấy được đồ giá trị, tiếng xe gắn máy, xe hơi vọng lên tận tầng lầu ba. Tôi chỉ biết nằm im, lắng nghe tiếng thì thầm của gia đình người chị dâu ở tầng dưới về việc đi hay ở. Nghe nói còn một chuyến tàu chót tối nay của đề đốc Chung Tấn Cang (?) ở cùng xóm, 30 đêm mai là hạn chót …
Những đêm cuối cùng này, VC pháo kích vô tội vạ vào thành phố Saigon. Người không có phương tiện, không móc nối được để ra đi, rủ nhau chui rúc ở tầng dưới cùng của những căn phố lầu, ở hầm trú ẩn để tránh pháo kích. Các con tôi, phần lạ nhà, phần khác, trí óc trẻ thơ của chúng cũng đã kinh hoàng cho cảnh tượng ngoài bến tàu Saigon buổi chiều khi tiễn bố đi nên khóc lóc, ôm chặt lấy mẹ. Lại còn con nhỏ người làm mếu máo vì sợ lạc cha, lạc mẹ... Nhưng tôi quyết định không mang các con xuống dưới nhà. Vừa cố ru các con ngủ, tôi tự nhủ: sống chết có số, vừa cầu nguyện cho người ra đi bình an.
Tôi lập gia đình khi còn quá trẻ để biết thế nào là trách nhiệm nặng nề của một người mẹ, nhất là một người mẹ trẻ trong hoàn cảnh đất nước, chiến tranh điêu tàn. Tuy nhiên, không biết gì hết mà lại hay. Tôi nghĩ, nếu ngày đó, tôi hiểu biết nhiều hơn về tình hình đất nước, chắc là tôi sẽ sợ đến chết khiếp đi được. Trí óc tôi ngày đó chỉ có một điều: ngủ đi, ráng qua đêm nay, sáng sớm, tìm cách mang các con về với cha mẹ. Thế là yên. Thế là xong. Nếu ngày đó, tôi biết được rằng đất nước chúng ta đang đi vào một trang sử thảm thiết bi ai cho những người đã sống tại miền Nam trước 1975 thì chắc tôi không thể hồn nhiên như tôi lúc đó. Tôi dỗ các con tôi mà như dỗ chính mình: ngủ đi con, mai mẹ con mình đi về với ngoại.
Sáng 30 tháng 4, chị tôi từ dưới lầu lên cho biết ông Dương văn Minh đã đầu hàng và bộ đội VC sẽ vào tới dinh Độc Lập vào trưa nay. Tôi nghe, cũng chỉ thấy lòng dửng dưng: phải đi về ngoại. Có cha tôi bên cạnh là yên, là đủ. Vã lại, trước đó, tôi cũng như đa số bạn bè đều nghĩ rằng: không lẽ VC vào để giết hết dân miền Nam.
Vì thế mà những ngày tháng tiếp theo, cho đến khi cha mẹ tôi phải bỏ mẹ con tôi lại một mình đi về Pháp trước, dù bất khả kháng, khỏi nói thì bạn cũng biết là tôi tuyệt vọng và kinh hoàng đến mực nào trong thành phố Saigon đổi chủ. Tôi sống lầm lũi không nói năng. Tôi sống với điều mới vừa được biết từ những người công an “Sở Người Nước Ngoài”: tôi là một người có tội. Cái tội không biết động viên chồng theo đường lối Cách Mạng. Cái tội “đương nhiên” của bất cứ người đàn bà miền Nam có chồng là “Ngụy”. Ngày đó, tôi sống với một ý nghĩ duy nhất: phải rời khỏi Việt Nam. Tôi đã có thông hành của Pháp. Tôi đã có vé máy bay do Tòa Lãnh Sự Pháp tại Saigon cung cấp. Tôi nói với cha tôi: trong vòng sáu tháng nếu tôi không có hy vọng gì ra khỏi Việt Nam, tôi sẽ kết liễu đời mình và hai đứa con. Tôi không thể nhìn thấy các con tôi giống như những đứa bé con trên đường phố Saigon “giải phóng” bấy giờ, mỗi đứa một cây chổi nhỏ do cha mẹ biến chế vừa tầm tay để đi quét đường. Chúng phải làm vệ sinh đường phố để xứng đáng là “cháu ngoan Bác Hồ”. Tôi bướng bỉnh chống đối một bà thiếm dâu vào từ Hà Nội khi bà phê bình con gái Saigon bảo hoàng, thực dân, tư tưởng nô lệ tư bản khi áo dài tha thướt, khăn vành hoàng hậu trong ảnh đám cưới trong Nam. Tôi cố tình mặc những cái áo dài đẹp nhất của mình dù gió, nắng Saigon không còn như những ngày tháng cũ. Buồn cười nhất là chỉ một năm sau, bà thiếm dâu lại theo xin vài cái áo dài để đi dạy học vì... ai cũng mặc áo dài, thiếm mặc áo ngắn thật khó coi. Tôi chỉ tiếc là khi đó, tôi không còn nhiều áo. Trước đó, bà không xin vì đó là “tàn tích” của thực dân, phong kiến, không đúng tác phong của người lao động của XHCN. Bây giờ khi bà cần thì áo thành cũ cả, làm sao cho được nữa.
Ông chú cán bộ cao cấp, một sinh viên Hà Nội thời cuối thập niên 40 đã trả lời khi tôi hỏi về câu nói của Bác Hồ: Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Thế thì tự do ở đâu. Dân miền Nam không có tự do đã đành, còn dân Bắc, những người đã “góp đời cho “cách mạng” để giải phóng miền Nam” cũng nghèo đói thảm thương, cũng không được tự do. Làm gì có cảnh: khi đất nước tôi thanh bình tôi sẽ đi thăm, Huế-Saigon-Hà Nội của nhạc TCS. Ông chú từ tốn đưa bát ăn cơm, loại bát Bát Tràng đem từ Bắc vào Nam méo mó để bảo rằng: chúng ta có tự do chứ, tự do trong cái bát này. Câu trả lời đó bây giờ nghĩ lại, thật hay và đúng từ một người có 35 năm kinh nghiệm về cộng sản. Người dân Việt từ nay được sống “tự do” để tìm miếng cơm, đừng mong ước nhiều hơn.
Những cô bạn của tôi, các cô sinh viên Saigon, trước đây được cha mẹ lo cho từng chút một, áo luạ, thơ thơ, thẩn thẩn, bây giờ, một sớm, một chiều, phải lo gạo cho đầy bát cơm con, trông tin chồng trong cái nhìn soi mói của bọn “bò vàng” 30 tháng 4 dựa lưng bộ đội, công an mà bắt nạt. Ông chú ngày đó, vào Saigon được cha tôi cho một chiếc xe Honda ngày nay đã ra người thiên cổ nhưng những đứa con của ông bây giờ dẹp cả mồ mả ông bà qua một bên, xây nhà lầu trên đó, đi xe Mercedes trong khi gia đình chúng tôi giờ phân tán tứ phương, ở Pháp, ở Mỹ, khó mà gặp được nhau. Cha mẹ tôi tuổi già nơi xứ người ngồi nhớ con, nhớ cháu, lâu lâu còn nhận được vài lời nhắn nhủ từ quê nhà về việc sao không gửi tiền về trùng tu nhà từ đường. Bầy con cháu cán bộ, ủi xập mồ mả ông bà xây nhà lầu cao kế bên trong khi ngôi nhà từ đường đổ nát, không chiếm hữu được thì để nguyên, sửa làm gì sau lời nhắn nhủ gửi tiền về trùng tu không hiệu quả? Những không phải đứa cháu cán bộ nào cũng giầu, dù chúng cũng vào từ miền Bắc, đứa đi xe Mercedes, ở lầu cao nhưng cũng có đứa nghèo dù cùng là con liệt sĩ, có đứa lấy vợ là con gái của Trung ương Ủy Viên, bạn của ông Hồ nhưng đã quá cố từ lâu nên cũng nghèo xác xơ... Thư cuối cùng của chú tôi mà cha tôi nhận được có nêu lên thắc mắc: các con của anh tại sao chúng lại thù hận Cộng Sản đến thế. Cộng Sản làm gì chúng nó...
Bạn hỏi tôi nghĩ gì, nhớ gì vào ngày ba mươi tháng tư? Vật đổi sao dời, bạn ta. Trong ba mươi năm làm báo, tôi đã chứng kiến cộng đồng Người Việt tị nạn lớn dần qua nhiều thập niên! Thương hải biến vi tang điền. Từ những bãi dâu, con đường Bolsa ở quận Cam đã biến thành một thủ đô của người tị nạn với bảy cái nhà băng trong vòng hai dặm đường. Khí thế chống Cộng bừng bừng, nhất là khi có làn sóng HO qua. Người ta họp bàn chuyện giải phóng đất nước, trùng tu cương lĩnh chính trị, ra mắt sách tố cáo tội ác của Cộng sản dễ dàng như người ta gặp nhau để kháo cho nhau về một tiệm phở mới mở có hương vị phở Saigon năm xưa. Cứ một hội được lập ra thì y như rằng sau một thời gian sẽ có một cuộc ly khai. Ai cũng căm thù Cộng Sản nên từ đó nhìn đâu người ta cũng thấy Việt Cộng, Việt Gian. Người ta vu cáo, chụp mũ nhau là Việt Cộng, Việt Gian rồi người ta lại hồ hỡi rũ nhau về Việt Nam thăm quê hương, giao du với Việt cộng, làm Việt gian. Nhưng sau 50 năm, tất cả những “ồn ào” đó ngày nay đã lụy tàn vì hầu hết những “nhân vật” trong cộng đồng đã … biến mất, lão lai tài tận, đâu ai sống mãi được với thời gian.
Nhưng khi nhìn lại ngày 30 tháng 4 cũng không phải cái gì cũng xấu. Như sử gia Pham Cao Dương đã gọi là “khía cạnh màu xanh của ngày 30 tháng 4” là bầy trẻ Việt được ra khỏi nước khi chúng mới một, lên ba đã trưởng thành, đã thành nhân. Đã làm rạng danh giòng giống Việt trên toàn thế giới mà vẫn còn nhớ về nguồn cội của mình. Chúng thông minh lắm, sáng suốt lắm, chúng thương bố mẹ chúng sang đây, một đồng, một chữ cũng không, nói tiếng Anh bằng tay, nuôi dạy con nên người đâu phải là chuyện nhỏ.
Hai đứa con tôi ngày ra khỏi nước lên ba, lên một. Ký ức chúng về Việt Nam thực không có gì nếu như tôi không được sống với cha mẹ tôi. Nhờ sống với ông bà ngoại, các cháu nói tiếng Việt tương đối khá so với nhiều trẻ Việt chung quanh. Quận Cam nhiều người Việt nhưng chỉ tiếc những trẻ Việt hầu như không còn nói được tiếng Việt. Có em chỉ có tên Mỹ không có tên Việt. Người Mỹ có nhiều cá tính tốt nhưng cũng không phải vì vậy mà chúng ta nên quên đi những cá tính tốt của người Việt Nam. Có lần tôi đã được đọc một nhà văn nữ Việt Nam ca tụng đàn ông Mỹ không tiếc lời rồi kết luận là đàn ông Việt Nam không ít thì nhiều cũng vướng vào một trong tứ đổ tường lại... xấu trai. Hỏi lại mới biết là bà có một kinh nghiệm xấu với đời chồng Việt rồi sau lại “được” lập gia đình với một ông chồng Hoa Kỳ hiền lành, tốt bụng. Tôi nghĩ đến cha tôi, các anh tôi, đến những người bạn tốt của tôi. Khi không có cơ hội được biết tinh thần “trượng phu” của người đàn ông Việt Nam thì thật là tội nghiệp cho một người đàn bà Việt Nam.
Năm 1996, cha tôi ngã bệnh nặng. Cuộc phấn đấu cuối cùng của một đời người sao mà lặng lẽ quá. Bốn bức tường vôi, một trời xứ lạ. Tôi nương tựa vào cha tôi ngày 30 tháng 4, 1975 như thế nào thì cha tôi nương tựa vào tôi, vào ngày 30 tháng 4, 1996 như thế. Cái nôn nóng, đêm ngày 29 tháng 4, 1975 khi tạm trú trên lầu ba nhà người chị dâu để được gặp lại cha tôi như thế nào thì bây giờ mỗi khi tôi đi xa về, vào phòng thăm cha, tôi bắt gặp lại ánh mắt reo vui, bình yên dù cha tôi đang mỏi mệt đến đâu.
Do đó mà bạn ta, bạn hỏi tôi nghĩ gì mỗi khi ba mươi tháng tư? Nếu được phép sống lại đời mình thì tôi sẽ ra sao năm mươi năm qua? Có thể là tôi...vẫn lập lại những lầm lỡ cũ. Bởi vì tôi có quá nhiều kỷ niệm dễ thương hay đau thương trong đó. Như cái buổi chiều chạng vạng tối, cha tôi chờ tôi bên kia đường của Sở Người Nước Ngoài tức Sở Ngoại Kiều của tôi. Tôi bị Công An VC thẩm vấn từ buổi trưa về tình trạng mất tích của chồng. Nét mặt đau đớn, kinh hoàng của tôi khi ra khỏi căn nhà u ám với những ngọn đèn vàng leo lét đó chắc làm cha tôi đau lòng lắm. Con đường trở về nhà tối đen, cha tôi chở tôi đi trên chiếc Honda và không nói năng gì, chỉ bóp nhẹ bàn tay tôi đang ôm vòng bụng người và vổ nhè nhẹ. Trời chiều hôm đó mưa bay khi nặng, khi nhẹ. Tôi thương … tôi quá nên không còn biết rõ những hạt nước trôi vào miệng mình là nước mắt hay nước mưa. Tôi chỉ biết rõ một điều, những hạt nước đó đã thay đổi cuộc đời tôi vĩnh viễn: mãi mãi tôi chỉ muốn làm một người đàn bà Việt Nam lụy con, thương cha mẹ và yêu thương đất nước, dân tộc của mình. Đó là lý do mà bạn ta ơi, tôi luôn luôn có thừa can đảm để nhận lấy trách nhiệm của mình nhưng cùng lúc lại là một người đàn bà nhà quê, sống không khác cái đời năm mươi năm về trước tại quê nhà là bao nhiêu.
Bạn hỏi tôi mong ước gì? Tôi chỉ mong tôi sẽ được như mẹ tôi khi tuổi già: tóc bạc, hoa râm, lẩm nhẩm đọc kinh sớm tối dù trí óc đã lẫn lộn, câu còn, câu mất, đang niệm kinh lại nhớ đứa con này ở xa, đứa cháu kia ở gần, không biết bây giờ ra sao, nhưng lúc nào bà cũng biết rằng mình được con cháu rất yêu thương. Ba tôi mất năm 1997, mẹ tôi mất năm 2008. Lâu quá rồi, khi ngồi bên mộ hay khi thắp hương trên bàn thờ, tôi biết “ông bà” không còn ở bên tôi nữa mà thực sự đã về cõi vĩnh hằng, một nơi nào xa lắm mà dù theo Phật giáo hay Công giáo, tôi biết tôi cũng không có hy vọng gì gặp lại dù có kiếp lai sinh. 50 năm rồi, ngày miền Nam đổi chủ, tôi mới hơn 20 bây giờ tôi đã là một bà già tóc bạc phơ thì cha mẹ khuất bóng cũng là điều đương nhiên. Vậy mà mỗi sáng, khi thắp hương trên bàn thờ vẫn cứ nghe mình lẩm bẩm điều gì đó với cha, với mẹ. “Dân số” trên bàn thờ cũng đã tăng lên nhiều, 5 người rồi, “di sản” để lại khi dọn nhà cũng mệt. Cái tủ thờ bằng gỗ đỏ, mẹ tôi đòi mua khi mới sang Hoa Kỳ. Bộ lư hương bằng đồng rất đẹp đã cho nhiều nhà mượn để làm đám cưới có từ đời ông nội. Ông Phật Thích Ca bằng đồng đen nặng thấy mồ. Rồi còn bao nhiêu là album, hình ảnh của tang ma, của đám cưới các con, các cháu. Câu “buông bỏ” nghe thì dễ mà làm không dễ nên đi đâu thì cũng cứ phải “tha đi, tha về”.
Không biết tôi sẽ có thêm bao nhiêu năm nữa trong đời mình để mà ngậm ngùi khi ngày 30 tháng 4 lại đến? Để mà nhìn Việt Nam biến đổi, nơi con người có thể sống và làm việc, đóng góp cho xứ sở bằng khả năng của mình chứ không phải bằng thành tích của “cách mạng”? Đến khi nào thì đất nước Việt Nam mới thực sự thống nhất và độc lập. Đến khi nào thì người dân Việt Nam mới được tự do nghĩ rằng mình là công dân của đất nước này, một đất nước không chia thành hai phe thua, thắng cuộc như 50 năm qua.
Hoàng Dược Thảo